Đối tượng nộp phí thử nghiệm tiêu hao nhiên liệu đối với ôtô dưới 7 chỗ là doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu xe. Mức phí thu áp dụng cho cả mẫu xe chứ không phải với từng chiếc.
Thông tin chuẩn bị thu phí khí thải 16 triệu đồng/xe 7 chỗ ngồi khiến nhiều người sử dụng xe băn khoăn, lo lắng. Trên thực tế, đang có một số điểm có thể gây hiểu nhầm trong Thông tư 199/2015/TT-BTC hướng dẫn thu phí thử nghiệm khí thải đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu mới mà Bộ Tài chính vừa ban hành.
Về việc này, trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Vũ Khắc Liêm - vụ phó Vụ Chính sách thuế Bộ Tài chính - khẳng định người dân không phải nộp phí này.
“Theo quy định thông tư 199 năm 2015 của Bộ Tài chính, từ ngày 25/1 phí đăng ký thử nghiệm mức tiêu hao nhiên liệu đối với ôtô dưới 7 chỗ là 16 triệu đồng đối với xe chạy xăng và 16,5 triệu đồng đối với xe chạy dầu diesel.
Quy định này chỉ áp dụng với ô tô mới và đối tượng nộp phí là doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu xe. Mức phí thu áp dụng cho cả mẫu xe chứ không phải với từng chiếc.
Quy định này cũng không bắt buộc các doanh nghiệp, nhà nhập khẩu, lắp ráp xe phải thử nghiệm mức tiêu hao nhiên liệu, mà đơn vị nào có nhu cầu thì đăng ký và trả phí.
Đơn cử như Toyota VN sắp ra một mẫu xe mới. Họ muốn thử nghiệm dòng xe mới này chạy 100km sẽ tiêu hao bao nhiêu nhiên liệu. Nếu có nhu cầu thì doanh nghiệp đăng ký thử nghiệm và mất phí, còn không có nhu cầu thì thôi” - ông Liêm giải thích.
Thông tin trên báo Hà Nội mới, Đại diện Cục Đăng kiểm cũng cho biết đã từng giải thích rất rõ về vấn đề này nhưng không hiểu sao vẫn có sự hiểu lầm.
Theo đại diện này, khi một đơn vị sản xuất hoặc nhập khẩu xe đưa một mẫu xe mới về Việt Nam thì bắt buộc phải tiến hành thử nghiệm khí khải. Chỉ khi đạt tiêu chuẩn khí thải theo quy định thì mẫu xe đó mới được phép đăng kiểm để phân phối tại Việt Nam.
Khi Trung tâm kiểm định khí thải của Cục Đăng kiểm trả kết quả thử nghiệm khí thải sẽ trả thêm kết quả thử nghiệm về mức tiêu thụ nhiên liệu và doanh nghiệp phân phối, sản xuất xe chỉ phải trả phí thử nghiệm khí thải.
Tuy nhiên, hiện nay nếu doanh nghiệp muốn kiểm chứng lại kết quả thử nghiệm mức tiêu thụ nhiên liệu hoặc muốn nghiên cứu phát triển vấn đề tiêu thụ nhiên liệu trên một mẫu xe nhất định thì có thể đề nghị Cục Đăng kiểm tiến hành thử nghiệm mức tiêu thụ nhiên liệu theo phương pháp đo tiêu thụ nhiên liệu trực tiếp và chi trả mức thu phí đối với xe ô tô sử dụng nhiên liệu xăng là 16 triệu đồng/phép thử/lần/mẫu xe; đối với xe ô tô sử dụng nhiên liệu diesel là 16,5 triệu đồng/phép thử/lần/mẫu xe (đối với xe dưới 7 chỗ ngồi).
Trường hợp doanh nghiệp đăng ký thử nghiệm mức tiêu thụ nhiên liệu theo phương pháp cân bằng cacbon hoặc đồng thời vừa đăng ký thử nghiệm mức tiêu thụ nhiên liệu theo phương pháp cân bằng cacbon vừa đăng ký thử nghiệm khí thải theo phép thử loại 1 nêu trên thì chỉ phải nộp một lần phí bằng với mức thu phí thử nghiệm khí thải của phép thử loại 1 tương ứng với loại nhiên liệu sử dụng.
Trường hợp phát sinh các chi phí cần thiết khi thử đặc tính động cơ và chi phí khác phát sinh trong quá trình thử nghiệm do tổ chức, cá nhân yêu cầu thử nghiệm chi trả theo thỏa thuận với đơn vị thử nghiệm.
Liên quan đến mức thu lệ phí 100.000 đồng/giấy/mẫu xe để cấp giấy chứng nhận dán nhãn năng lượng đối với xe ô tô con từ 7 chỗ trở xuống, đại diện Cục Đăng kiểm cho hay việc thu phí này cũng chỉ áp dụng 1 lần cho một mẫu xe mới khi doanh nghiệp sản xuất hoặc nhập khẩu vào Việt Nam chứ không áp cho các chủ xe. Trên thực tế việc thu phí dán nhãn năng lượng đã được áp dụng được một thời gian và không phải là vấn đề mới.
Đối với mức thu phí thử nghiệm khí thải, Thông tư quy định mức phí thử nghiệm khí thải tiêu chuẩn Euro 2, Euro 3,4,5 đối với mô tô, xe máy, các loại xe tương tự, ô tô.
Cụ thể, phí thử nghiệm khí thải tiêu chuẩn Euro 2 đối với ô tô được quy định như sau:
Tác giả: admin
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
© 2022 Bản quyền thuộc về VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI.
Viện Khoa học và Công nghệ GTVT được thành lập theo Nghị định số 96-NĐ ngày 04/10/1956 của Bộ Giao thông và Bưu điện