Tại buổi làm việc, đồng chí Nguyễn Xuân Khang - Bí thư Đảng ủy, Viện trưởng đã báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ của Viện trong 6 tháng đầu năm 2012.
Trong 6 tháng qua, Viện KH&CN GTVT đã quyết liệt chỉ đạo và thực hiện các nhiệm vụ KHCN và môi trường, tiêu chuẩn năm 2012 được Bộ GTVT phê duyệt. Đã giao cho các đơn vị và Chủ nhiệm đề tài triển khai thực hiện 9 thuyết minh đề cương đề tài; 14 thuyết minh đề cương tiêu chuẩn; tổ chức hội thảo 13 nhiệm vụ. Viện cũng đã thành lập Ban chỉ đạo triển khai sử dụng xi măng trong xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông theo nhiệm vụ được Bộ giao. Đối với công tác triển khai ứng dụng dịch vụ KHCN, trong bối cảnh khó khăn chung của ngành và đất nước, mặc dù Viện KH&CN GTVT đã tích cực đẩy mạnh công tác tìm kiếm việc làm, tiết kiệm chi phí... tuy nhiên, kết quả triển khai dịch vụ của Viện vẫn đang trong tình trạng khó khăn, nguồn thu ngày càng giảm sút do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Hiện nay, Viện đã và đang cùng các đơn vị trực thuộc nỗ lực xây dựng thương hiệu, tiếp thị, tìm kiếm công việc, mở rộng thị trường, nhằm đảm bảo việc làm và đời sống cho người lao động trong Viện.
Sau khi nghe Viện Khoa học và Công nghệ GTVT báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ 6 tháng đầu năm, kế hoạch triển khai công tác 6 tháng cuối năm, những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao và những đề xuất kiến nghị, ý kiến phát biểu của các vụ chức năng thuộc bộ, các thành viên dự họp, Thứ trưởng Ngô Thịnh Đức và Thứ trưởng Nguyễn Ngọc Đông thống nhất kết luận:
1. Viện Khoa học và Công nghệ GTVT là cơ quan nghiên cứu ứng dụng Khoa học công nghệ hàng đầucủa Bộ, với 55 năm xây dựng và phát triển đã có nhiều công trình nghiên cứu và ứng dụng đóng góp cho ngành GTVT. Tuy nhiên, trong nhiều năm, Viện còn lúng túng, chưa mạnh dạn trong quá trình xây dựng và phát triển. Khả năng cân đối tài chính để để tự chủ còn hạn chế, hoạt động dịch vụ KHCN hiện nay đang trong tình trạng khó khăn, nguồn thu ngày càng giảm sút. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn khi Viện chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
2. Để giải quyết được những khó khăn, vướng mắc cho Viện trong thời gian tới, đặc biệt khi Viện chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, Viện cần chủ động và mạnh dạn đề xuất chi tiết, cụ thể hướng đi của Viện, những vấn đề Viện cần Bộ giúp đỡ và giải quyết. Trong đó đề xuất rõ các Vụ chức năng giúp đỡ giải quyết từng nội dung cụ thể.
3. Về chuyển đổi theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP
- Để thực hiện thành công công tác chuyển đổi cơ chế của Viện, yêu cầu Viện thành lập Tổ công tác rà soát toàn bộ hoạt động của Viện, đặc biệt là hoạt động về tài chính, khả năng tự cân đối thu, chi sau khi Nhà nước không cấp kinh phí hoạt động thường xuyên; rà soát về tài sản, xem xét, nghiên cứu và xây dựng phương án liên doanh, liên kết để khai thác tài sản được giao một cách có hiệu quả;
- Viện khẩn trương thực hiện các thủ tục theo quy định để trình Bộ phương án giao tài sản cho Viện theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp theo Thông tư 12/2012/TT-BTC ngày 06/02/2012 của Bộ Tài chính. Giao Vụ Tài chính hướng dẫn cụ thể cho Viện;
- Viện cần nghiên cứu và cân nhắc về khả năng chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP và doanh nghiệp KHCN. Giao Vụ Tổ chức cán bộ hướng dẫn, giúp đỡ Viện quá trình triển khai thực hiện.
4. Về cơ chế giao nhiệm vụ Nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng
- Hiện nay, Viện Khoa học và Công nghệ GTVT đang chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Đến ngày 31/12/2013, Viện sẽ không được cấp kinh phí hoạt động thường xuyên. Để đảm bảo duy trì hoạt động và phát triển của Viện, tiếp tục là cơ quan tham mưu về KHCN của Bộ, việc duy trì nguồn nhân lực KHCN cho Viện nói riêng và của ngành nói chung là rất cần thiết. Để thực hiện được điều đó, Viện cần có nguồn công việc thường xuyên và ổn định kể cả về nghiên cứu khoa học cũng như triển khai dịch vụ và ứng dụng KHCN.
+ Giao cho Vụ Khoa học công nghệ xem xét tham mưu cho Bộ xây dựng cơ chế giao nhiệm vụ cho Viện là đơn vị đầu mối chủ trì việc xây dựng Tiêu chuẩn của Ngành. Viện cần tập trung và thúc đẩy hơn nữa công tác xây dựng và ban hành tiêu chuẩn để có thể trở thành đơn vị đầu mối của Bộ trong công tác xây dựng tiêu chuẩn cho Ngành.
+ Giao cho Tổng Cục Đường bộ Việt Nam xem xét tham mưu cho Bộ xây dựng cơ chế để giao cho Viện là đầu mối thực hiện các nhiệm vụ về Tư vấn giám sát chất lượng các công trình giao thông của Ngành và sử dụng tư vấn phụ là các đơn vị thuộc Bộ. Trước mắt, để giúp Viện giảm bớt khó khăn trong hoạt động dịch vụ KHCN, Tổng Cục Đường bộ Việt Nam xem xét để Viện được tham gia TVGS Dự án QL 1.
- Trong cơ chế thị trường cạnh tranh, Viện cần năng động hơn trong công tác tìm kiếm việc làm, chủ động tìm hiểu các dự án của Bộ GTVT đang triển khai và đề xuất với Bộ giao nhiệm vụ cho Viện tham gia vào từng dự án cụ thể. Các Cục, Vụ chức năng thuộc Bộ tạo điều kiện giúp đỡ Viện để được tham gia các công trình, dự án của Ngành.
5. Về các đề xuất, kiến nghị của Viện
- Đối với Chiến lược phát triển và Quy hoạch tổng mặt bằng của Viện:
Viện khẩn trương hoàn thành việc chỉnh sửa theo nội dung thông báo kết luận cuộc họp của Bộ ngày 23/5/2012 với Viện để trình Bộ phê duyệt. Giao cho Vụ Tổ chức cán bộ là đầu mối thẩm định và tham mưu cho Bộ ban hành Chiến lược phát triển Viện đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 của Viện. Giao cho Văn phòng Bộ giúp đỡ, hỗ trợ Viện trong quá trình thực hiện các thủ tục với các cơ quan chức năng để xin thỏa thuận Quy hoạch tổng mặt bằng của Viện.
- Đối với công tác tăng cường năng lực NCKH:
+ Về Dự án ODA, Viện cần có sự thống nhất với đối tác Nhật Bản về việc điều chỉnh một số nội dung của dự án và vốn đối ứng, báo cáo Bộ điều chỉnh dự án và hoàn thành các thủ tục phê duyệt văn kiện dự án. Giao cho Vụ Kế hoạch đầu tư gúp đỡ Viện trong quá trình thực hiện các thủ tục để phê duyệt văn kiện dự án;
+ Về Dự án Trung tâm Thí nghiệm GTVT Quốc gia, Viện tiếp tục triển khai thực hiện theo thông báo kết luận tại cuộc họp ngày 23/5/2012 của Bộ với Viện. Giao cho Vụ Tài chính giúp đỡ, hướng dẫn Viện trong công tác xây dựng phương án huy động vốn từ các nguồn vốn khác nhau theo quy định của pháp luật.